Sơn Nam
HỒI KÝ SƠN NAM - tập 1
TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ
Chương 2
Sau 3 năm học bổng ở trường tỉnh, lớp
nhì 1, lớp nhì 2 rồi lớp nhất, tôi thi đậu
bằng Sơ học (CEPSI). Rất mừng và rất lo. Nhà
nghèo, không thể tự túc đi học tiếp theo ở
tận Cần Thơ,cách xa Rạch Giá 120 cây số, nơi
xa lạ,chẳng bà con quen thuộc. Chuyện nầy do cha
mẹ tôi quyết định,hai vị đáng kính ấy
tin tưởng rằng tôi là đứa học trò giỏi.
Dầu gì đi nữa,tôi cũng phải rời bỏ cái
tỉnh lỵ nầy để ra đi, về đâu thì
chưa biết. Tỉnh lỵ cô đơn ở ven
biển nầy là nơi anh hùng Nguyễn Trung Trực bị
đưa ra pháp trường, hằng ngày đi học
sớm chiều tôi qua lại 4 lần. Người
địa phương cử tên, quen gọi là ông
Nguyễn.
Trước
khi tạm biệt chợ, tôi thấy nôn nao khó tả.
Ở đây mấy năm qua cũng buồn mà chỉ
nhớ cái vui.Và cái buồn cũng thành cái vui. Ði ngang qua
tiệm Nguyễn Ngọc Thái, cứ khen ngợi vì ông
chủ nầy nấu loại xà bông thơm , giá rẻ, có
chất lượng nhưng không phát triển cơ ngơi
được,thất bại rồi tàn lụi về sau
vì kém tiếp thị qua các tỉnh lân cận. Lại có
một hiệu thuốc Tân dược,(gọi tiệm
thuốc Tây)do một dược sĩ người Huế
là Nguyễn Khoa Dai làm chủ,cô vợ đầm trông
mạnh khỏe và sang trọng.Trong tiệm chưng
loại cân hễ có người lên đứng trên bàn thì
cây kim chạy, ghi rõ sức nặng. Nhiều lần qua
lại, tôi tò mò nhưng không dám vào, e bị rầy rà. Ở
sát nội thành là khu vực nghĩa địa, dành cho
người Hoa, nhiều kiểu trông rất đẹp
mắt, nấm mộ là mô đất, trồng cỏ xinh
xắn,dịp Thanh minh, người Hoa đến bày tiệc
trước mộ. So với vùng U Minh,sinh quán của tôi, quả
thật chợ Rạch Giá có nhiều điều lạ.
Lại
phải đi thi tuyển để vào trường Trung
học công lập duy nhất phía Hậu Giang. Khó thi
lắm,các tỉnh miền Tây kể luôn vài tỉnh phía Sa
Ðéc,Vĩnh Long cũng kéo đến dự thi, thí sinh non 500
nhưng chỉ chấp nhận học bổng khoảng 10
đứa.Tôi thi đậu hạng 25. Ðáng ghi nhớ là khi
đi thi, lại được dịp biết sơ qua
tỉnh lỵ Cần Thơ, xem như thủ đô
của miền Tây. Phố lầu hai tầng thêm tầng
trệt cất san sát...Sông Hậu to rộng mát rượi.Lại
có nhà máy điện khá to,cung cấp cho vài tỉnh,thêm nhà
máy nước đá,rượu bia và các tổng
đại lý về thuốc lá diêm quẹt. Chi nhánh của
Ðông Dương
Ngân Hàng to rộng,với cái mặt tiền
đầy vẻ bí hiểm. Thực dân là đây chăng? Lại
thấy vài văn phòng luật sư của người
Pháp.Lại thấy trụ sở của Ðồn
điền Hậu Giang.Vào quán ăn bình dân ở mé sông, cứ
mải mê xem cái bồn nhỏ, nuôi con cá tai tượng khá
to. Lại còn hiệu sách Vân Nhiều chưng bày báo Tiểu thuyết thứ bảy,
Phổ thông bán nguyệt san, thêm sách của Tự
Lực Văn Ðoàn. Thêm hiệu sách khá to của Trần
Ðắt Nghĩa chuyên sách báo chữ Pháp, bấy giờ
chương trình trung học dành cho người Việt
vẫn nặng về Pháp ngữ nên đọc
được sách giải trí phổ thông, hoặc sách
văn học cổ điển trong chương trình giáo
khoa. Các bài giảng trong lớp đều dùng tiếng Pháp.
Người anh chú bác ruột của tôi đã tận tình
giúp đỡ, dẫn dắt tôi đi chơi, lần do
địa chỉ những người nấu cơm tháng
cho học sinh ngoại trú.Bấy giờ, ở Cần
Thơ ngoài trường trung học tư Nam Hưng, vừa
mở ra thêm trường Bassac,do ông Phạm Văn Bạch
làm hiệu trưởng. Nhiều điểm dành cho
học sinh ở tỉnh khác đến ở,nhà trọ
mở ra, cạnh tranh nhau về giá cả. Gặp một
địa chỉ giá rẻ, thật may mắn cho tôi.
Ðó
là ông Lư Bảo
Mỹ, chuyên nấu bếp cho học sinh nội trú, vì
vậy hằng ngày ông được ưu tiên đem
thức ăn dư về nhà, nuôi thêm học sinh nghèo. Nhà
lợp lá,trong con hẻm lầy lội nhưng đối
với tôi là đầy đủ tiện nghi.Thấy tôi
ốm yếu, hiền lành, ông nhận nửa giá,so với
học sinh lớn sứ vóc.
Thế
là cha mẹ tôi đành cố gắng vay nợ, sắm cho
tôi hai bộ quần áo bà ba vải trắng, tạm gọi
là đồng phục, thêm hai đôi guốc bằng cây vông
cho nhẹ. Lại mua một cái rương đan bằng
mây.
Quần
áo được mẹ tôi may tay cho rẻ hơn
mướn may bằng máy.Trước khi đi học xa, mỗi năm về
được có mấy tháng hè,mẹ tôi buồn buồn
nhìn đứa con yêu quí là tôi, căn dặn nhiều
lần.
Bấy
giờ đâu vào khoảng 1937, đại khái tôi còn nhớ
như sau:
-Ráng mà
học cho vẻ vang dòng họ, mình là dân U Minh, ai cũng chê
là dốt nát, quê mùa, áo mốc, chân phèn. Áo đen giặt vài
lần thi bay màu, chân đi đất thì phèn đóng đen
thui ở móng chân.Người An Nam mình sao lạ quá, bày
đặt phân chia...giai cấp(?),cho rằng dân xứ U Minh
nầy là hạng “trôi sông lạc chợ”. Quê nội
của con, đời ông cố ở cù lao Ông
Chưởng, bên Long Xuyên, kêu là xứ Hai Huyện. Ông
cố ngoại của con xứ Bò Hút, gần xứ Ô Môn, bên
kia bờ sông Lớn. Xứ đó “dinh” lắm, ai dám nói là
quê. Thêm một điều mẹ muốn nhắc con là
hồi mới sanh con, mẹ đau nặng, không sữa cho
bú, trong xóm có một người đàn bà Miên, mới
chết chồng, có con nỏ đang bú. Người
nầy thấy mẹ bịnh, liền nhận lãnh trách
nhiệm cho con bú mấy tháng trời. Sau đó, mẹ
hết bịnh, bà ta cũng tới thăm và tập cho con
ăn cơm. Bà ta đưa cơm vô miệng nhai, sau đó
nhả trên tay mà đút cho con. Con ăn coi bộ ngon
lắm. Rồi bà ta lấy chồng khác mà vẫn lui
tới bồng con đi chơi. Hồi học lớp
Năm(lớp một),bà ta đưa con đi học, qua
cầu khỉ, hoặc chỗ nào thì bồng qua.Năm
đó, ở chùa Khơme xứ Sóc Xoài, chùa linh lắm, bày ra
lễ Chô Thơ Mo, trước bệ Phật,tại chánh
điện, người ta đào một lỗ khá to, nói là
trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ nên bỏ
xuống lỗ những món có ý nghĩa, như cây
kim,sợi chỉ để con gái may vá giỏi, khi lớn
lên. Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài
lượng vàng, vài chiếc cà rá, kiếp sau sẽ giàu
hơn kiếp nầy. Bữa đó má bắt chước,
nhờ con Cà Xúc,(tên của bà ta) mua cây viết, bình
đựng mực, cái tập giấy để cho con
tới đó bỏ xuống, trước bàn Phật, lấy
phước trong cõi đời nầy.Người ta đi
chùa, đông lắm, ai tin trời Phật thì má cũng tin.
Lời
dặn sau cùng mà mẹ tôi nhắc đôi ba lần là nên
nhường nhịn bất cứ ai.Mình yếu
đuối, ốm o thì nên tránh chuyện nổi nóng, chửi
thề, đánh đấm. Ði học nơi xứ lạ
quê người, rủi xảy ra bề gì, không ai bênh
vực.
Xứ
Cần Thơ vui lắm, vui gấp mươi lần
xứ Rạch Giá. Ðường phố to rộng, đèn
điện sáng choang,người ăn uống tấp
nập.Có hai hãng xe đò đưa khách đi Sài Gòn do
người Việt làm chủ. Ðôi ba ngày một lần, tàu
Nam Vang chạy ngang, ghé lại khá lâu, hành khách, hàng hóa lên
xuống rộn rịp, thêm người trên bờ
xuống tàu rao thức ăn uống...Tàu của công ty
người Pháp ờ Sài Gòn, chạy khỏi Nông Pênh, quẹo
qua Biển Hồ.
Chợ
Cần Thơ nằm ở ngã ba sông, con rạch ăn
từ sông lớn(Hậu Giang) chảy về phía Tây gọi
Rạch Cần Thơ, khá rộng, đưa nước
ngọt về phía vịnh Xiêm La, xưa kia ách tắc, chảy
vào vùng đầm lầy. Hồi đầu thế kỷ
20, người Pháp cho đào con kinh chiến lược (kinh
Xà No) nối ngọn rạch Cần Thơ qua sông Cái
Lớn, thông tới biển.Nhờ vậy mà có nguồn
nước ngọt rửa sạch phèn vùng đất
rộng lớn,trung tâm của vùng là chợ Vị Thanh,
điền chủ Pháp và Việt tha hồ giành nhau phần
đất hai bên kinh xáng nầy.Có câu hát:
Cái Răng, Ba Láng,Vàm Xáng,Phong Ðiền,
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền.
Ðừng cho lúa gạo, xóm riềng họ hay.
Hay, tức là hay
biết, kinh tế thị trường phát triển, có
tiền mặt mang theo, nhẹ nhàng, gọn gàng,thì sẽ
mua được tất cả.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng Xà No,
Anh thương em, sắm một chiếc
đò.
Ðể anh qua lại mua cò gởi thơ.
Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh
Cùng,
Tràm xanh cũi lụt, anh hùng thiếu chi?
Ca dao mô tả đi
khẩn hoang, nhưng khẩn chưa xong là phần
đất ấy thuộc về chủ quyền của
người khác. Biết vậy nhưng cứ chịu
cực.
Ra đi gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng
tu.
Ði
khẩn hoang là theo nếp sống tùy tiện.Thấy
bầy vịt của ai đó lội trên sông, cứ
bắt một con mà ăn thịt, nếu chủ hay
được thì cứ xin lỗi là yên vui. Gặp ai yêu
mình, mình cứ yêu trở lại, muốn kết nghĩa
vợ chồng thì tùy hoàn cảnh.Gặp ai rao giảng
đạo lý nào thì cũng noi theo, gẫm lại có từ
bi bác ái, làm lành lánh dữ là được.
Chợ Cần Thơ
quả là thành tựu về kinh tế thị
trường, hồi đầu thế kỷ. Lúa gạo, sản
phẩm gom về để phân phối cho các vùng lân
cận, lên Sài Gòn.Ngã Bảy - Phụng Hiệp là trục
giao thông lớn của các tỉnh phía Nam vùng Hậu Giang, nơi
đất thịt (hiểu là phù sa tương đối
định hình,pha ít nhiều đất sét). Nước
ngọt thì do sông rạch cung cấp hoặc nhờ
“nước trời”.Khoai lang, lò nấu bếp, củi,bắp,
đậu, trái cây chở tới lui trên sông rạch.Tại
Ngã Bảy nầy ghe thuyền,tàu thủy ngày đêm rộn
rịp.Có bán đủ thức ăn,thức uống cho ghe
thuyền,bán không sợ ế,vì giới tiểu
thương dám ăn xài,tương lai đang mỡ
rộng trước mắt,sung sướng hơn
người nông dân dãi nắng dầm mưa, trực
tiếp sản xuất.
Ðạo nào vui cho bằng cái
đạo đi buôn,
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ
nước sông.
Lần
hồi, làm quen với sông Cửu Long, tôi thấy nó khác
hẳn những con sông nhỏ bé nhưng hung tợn của
phía Cà Mau, đổ ra vịnh Xiêm La. Mặt nước
như chảy chậm, nhưng
kỳ thật chảy mạnh ở dưới đáy
sông, những cây sào cắm gần bờ vẫn rung rinh khi
nước như đứng lại. Cá ở sông lớn
nầy được gọi là “cá trắng”, trong khi cá
ở rừng tràm Cà Mau, U Minh gọi là “cá đen”, dựa
vào màu sắc bên ngoài. Cá tra,cá vồ,cá bông đều to con
và bụng có mỡ, nấu canh chua khá ngon.Lại còn
loại cá nóc, nhiều thứ cá nóc, tôi bắt chước
các bạn xuống tắm ở sông lớn, tắm
nước ngọt mát mẻ không như ở nước
mặn nước phèn, nước lợ phía U Minh...Tôi
mặc quần cụt, tắm rồi lên bờ chợt
đứa bạn phát hiện: “Cá nóc đó, tỉnh táo,
đừng sợ”.Trong lúc tôi ngơ ngác, đứa bạn
chỉ ngay đầu gối tôi. Máu chảy ròng ròng, xem
lại thì quả là một vết thương lạ lùng. Nơi
cá cắn, một màu trắng, màu trắng của mỡ, rồi
thì lắt sau máu chảy ra,không biết làm thế nào
ngăn lại, điều ấy chứng tỏ bộ
răng cá nóc quá bén, bị nó khoét mà mình chưa hay biết gì
cả.Vết thương ấy ở gần đầu
gối, hơn 60 mươi năm sau mà sẹo vẫn
còn.Gọi vùng Hậu Giang, nhưng gồm nhiều tiểu
hình thế, từng mảng khác nhau.
Gần
ven sông, ven biển, nhiều gân đất cao ráo, người
Hoa kiều từ lâu rồi biết khai thác để
trồng nhãn. Dịp tựu trường tha hồ ăn
nhãn, bây giờ chỉ có loại nhãn lớn hột.Thơm
tho ngọt ngào, đối với người ở U Minh, xứ
không bao giờ thấy cây nhãn.Lại còn các loại chim
ở đồng lúa vùng nước ngọt, nay hãy còn
như ốc cao,vỏ vẻ, chằng nghịt,cuốc.Dân
miền quê dùng lưới mà chụp, vặt lông, chiên,gọi
món “chim rô ti”.Theo thời trang, giàu nghèo gì đều vừa
đi vừa ăn, hãnh diện đến các điểm
thụt bi da, vừa xem vừa ăn...Bấy giờ
rộ lên phong trào thụt bi da, mỗi hiệu chứa
chấp một tay thụt nhà nghề. Họ trình diễn
những kiểu đánh đẹp mắt. Loại bi da
Pháp, ắm khi họ thụt đụng trái banh thứ
nhất,dội qua cạnh thứ nhì, tạt qua cạnh
thứ ba,dội lại, đụng vào mé của trái banh
còn lại.Tôi hiểu họ quen tay,dùng trực giác mà suy
luận.Vài người bạn bảo đó là lượng
giác học.Và thụt bi da là môn thể thao, suốt
buổi, họ đi quanh bàn hàng đôi ba kilômét, khi
thẳng lưng khi khom lưng, xem yểu điệu.
So
với thị xã Rạch Giá thì Cần Thơ sang trọng vượt
bực. Đâu từ năm 1920 về sau, đã có rạp
chiếu bóng, chiếu hàng đêm,phần lớn là phim Pháp, mỗi
ngày có chiếc xe ngựa đánh trống rao mời,hai bên
hông xe treo bảng quảng cáo với ảnh tài tử, có
đứa bé phân phát chương trình, in chữ Pháp,chữ
Việt. Bấy giờ nhiều người ghiền xi nê
lo sưu tập các chương trình nầy, đóng
từng xấp, lâu ngày thấy đẹp mắt và quí
giá.Bấy giờ là phong trào của loại phim lực
sĩ Tạc dăn người tình xinh đẹp, cũng
ăn mặt hở hang nhưng so với ngày nay thì ít khiêu
gợi, tương đối lành mạnh.Nhưng bối
cảnh buổi ấy quả là táo bạo, làm cho nhiều
khán giả mất ăn,mất ngủ.Lại còn cô đào
trẻ Shirley Temple, đâu cỡ 10 tuổi lanh lẹn,vui
tươi. Ðôi ba tháng lại xuất hiện một bộ
phim màu, xem như đỉnh cao về kỹ
thuật.Bấy giờ không có thuyết minh hoặc phụ
đề Việt ngữ gì cả.
Nhiều
thanh niên dạo phố cao hứng rút trong túi cây kèn thổi,
nay gọi là khẩu cầm,thổi giọng cao,giọng
thấp lại có đánh nhịp.Câu lạc bộ đi
trợt trên kiểu giày có bánh xe (patins)uốn
lượn,trai gái dìu tay nhau,khá đẹp.Lại còn nơi
biểu diễn thiết hài, kiểu giày ở gót có bộ
phận bằng sắt gõ nhịp.Vài ba quán nhậu trổi
lên những bản nhạc thời thượng bên Pháp,
đại khái “Nếu bạn trở lại” như
lời hứa (si tu reviens) hoặc “Bài tặng em Nina”(Chanson
pour Nina) hoặc “Tôi có hai mối tình”,thứ nhất là quê
xứ của tôi, còn mối tình thứ nhì là thành phố
Paris ! Nói chung, khu vực nầy tụ tập con ông cháu cha,
cụ thể là con cháu của giới điền chủ
lớn nhỏ, lúa vẫn bán có giá trên thị trường
quốc tế. Một số cô cậu đang đòi đi
học ở Sài Gòn, Huế Hà Nội, nếu không có hoàn
cảnh sang Pháp.Nhiều cậu ở tỉnh gần,
thỉnh thoảng cha anh lái xe nhỏ lên thăm, sắm cho
giày da,hoặc bộ Âu phục bằng tuýt so, hiểu là
tơ đũi, loại tơ kéo từng sợi to.
Hằng
đêm vì ở ngoại trú, lại có trí nhớ nên tôi
học bài rất nhanh, sau đó, lại dạo chơi
xứ người, kiểu dạo chơi không tốn
tiền. Thích nhất là đến bến xe đò.Từng
đoàn người ngồi tràn lề đường thích
thú với việc đàn ca Vọng cổ, phần lớn
là dân lao động,thêm số người lanh lẹn là
lơ xe đò (phụ xế ),họ đi về tận
Sài Gòn,Cà Mau, Sóc Trăng. Ðàn kìm (nguyệt),thêm đàn
ghita,loại đan Tây Ban Nha nầy cải tiến chút ít, khoét
phím, lên dây lại, dường như “hội nhập”
được với hơi hướm,hò,xự,xang,xê,cống,nghe
khá du dương. Trong giới mộ điệu, có vài
người ăn mặc sang trọng, nghe giới
thiệu thì đó là vị Mạnh Thường Quân,
sẵn sàng chi tiền cho anh em phát triển “nhạc tài
tử”, thí dụ như mua gà vịt, thêm chút ít
rượu. Anh em đàn ca bảo rằng “cái nghề
nầy rất ít lợi”,chứng tỏ nhạc tài tử
của người Việt dễ lọt vào lòng
người hơn là nhạc Tây. Và bảo rằng ngoài
việc “chơi cho vui”, ai giỏi nghề thì cả
nước ái mộ, kẻ xuất sắc đi theo gánh
hát cải lương,quần áo sang trọng, đến
đâu cũng có người đón rước, lương
bổng cao hơn công chức, lại được
phụ nữ...mến chuộng ! Kẻ khác cải lại
rằng phải có tài và có thời, bằng không thì hát ở
nhà lồng chợ, rồi ngủ ở đình làng. Sớm
chiều rảnh rang dạo phố.Phải lấy cái
biệt danh nghe cho hay...Rồi vài bạn đờn ca
đứng lên hát,mặt đỏ ké, phải chăng
rượu đem cho con người sức tự tin và tâm
trạng lãng mạn?
Lại
tạm nghỉ để tranh luận về nguồn
gốc bản Vọng cổ.Từ Huế là bản Hành
Vân nhưng nhưng ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu
đưạ theo mà đặt bài ca mới, tả nỗi
buồn của người đi làm ăn xa xứ. Vài
năm trước, bản Vọng cổ được
Năm Nghĩa ở Bạc Liêu cải cách, nâng thêm
nhịp,từ nhịp tư lên nhịp tám.Thấy còn
hạn chế nên Mộng Vân cũng ở Bạc Liêu
mở thêm nhịp cho câu hát ngân nga và dài hơn, mỗi câu 16
nhịp. Gánh hát Cải Lương rước đào kép ca
Vọng cổ thì khán giả mới mua vé vào xem, ở Sài
Gòn và đâu đâu cũng thế. Phải mùi mẫn
hơn, lừng lẫy hơn cho thiên hạ nghe, chớ
không còn hát co ro, cúm rúm.
Như
vậy là giữ nguyên gốc thì...làm ăn không khá, lỗi
thời ! Tôi mừng thầm, cám ơn cha mẹ đã
chịu cực cho tôi đi xa để thấy chuyện
đời.Nếu cứ ở U Minh đá cá thia thia, ăn
cá lóc nướng thì vui nhưng u mê, sống ngoài thời
cuộc.Rốt lại,gần mãn năm học ở
trường Bassac, tôi thuộc vào hạng khá, nhờ...
nhớ dai,giỏi về Việt văn và Pháp ngữ. Bây
giờ,Việt văn không được chú ý, nhưng tôi
mải mê vì ông thầy Phan
Quốc Quang (biệt hiệu Thượng Tân
Thị )quả là giàu tâm huyết. Dạy bực trung
học,trong khi các giáo sư mặc Âu phục, mang
giày,thắt cà vạt thì ông thủ phận khăn đen áo
dài, nói ròng tiếng Việt, không xen tiếng Pháp nào hết
(vì ông không rành).Riêng về Hán học, dường như ông
chẳng đậu tú tài,cử nhân gì cả.Học trò
nhiều đứa đã vắng mặt liên tục, lắm
khi ngồi nghe,vụt đứng dậy ra sân mà nô đùa !
Người thích văn chương, ngoài đời, mến
mộ ông qua 10 bài Khuê phụ
thán.
Dạo ấy vài
người viết bài cho rằng Thượng Tân Thị
là kẻ đạo văn, chẳng bao giờ ông
đủ tài năng để làm 10 bài ấy.Khuê phụ thán là tâm sự
của bà hoàng hậu, vợ vua Thành Thái,qua lời thơ
đã than thở “Chồng hỡi chồng,con hỡi
con”,chồng và con đều bị đày.Có vài câu tuyệt
diệu như:
Con ơi, ruột mẹ ngướu như tương,
Bảy nổi ba chìm rất
thảm thương.
Khô héo lá gan, cây
đỉnh Ngự,
Ðầy vơi
giọt lệ, nước sông Hương.
Quê người
đành gởi thân trăm tuổi,
Cuộc thế mong gì
nợ bốn phương...
Thượng Tân Thị đã can đảm ca ngợi hai
vị vua nhà Nguyễn. Về
sau có người bênh vực Thượng Tân Thị, cho
rằng ông không đạo văn của ai hết,bằng
cớ là trong bài Thập thủ liên hoàn Khuê phụ thán
ấy có vài câu trùng ý, thí dụ
như:
-Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo
Rồi lại cũng ý ấy :
- Chiêm
bao lẩn quẩn theo hồn bướm...
Sự
việc ấy chứng tỏ tác giả là một thi sĩ
đuối hơi, và tầm cỡ của Thương Tân
Thị chỉ như vậy thôi.
Thượng Tân Thị không buồn, ung dung dạy chữ
Việt.
Chưa
hết chuyện mới lạ ở Cần Thơ.
Ven
bờ sông, mỗi buổi sáng,vài thanh niên say mê tập
thể dục theo phương pháp Tây Âu, họ cử
những quả tạ gồm hai cụt sắt nặng
như nhau, khoảng 5 kilô...bụng họ thon lại, nổi
lên 6 cục thịt,vai thì u lên,ngực to,vừa tập
vừa đếm. Họ hít bằng phổi, nhưng
thở ra bằng miệng,nghe khá to. Hỏi lại thì đó
là tập để trở thành “ắc-lét”(athlète ) tức
là lực sĩ. Chuyện lạ, đối với tôi
bấy lâu chỉ thấy biểu diễn võ Việt Nam. Hừng
sáng, vài thanh niên xuống sông, bơi lội chuyến đi
và về suốt 10 kilômét,tận chợ Cái Răng,tư
thế nằm thẳng, hai tay quạt đều và chân
đạp theo một động tác như máy chạy.
Họ
bảo đó là kiểu bơi lội quốc tế.Tôi
nghĩ rằng cứ mỗi sáng mình ra ven sông, hít không khí
trong lành và ngắm xem mấy người vãi chài bắt cá
cũng đủ rồi. Một thanh niên đen đúa,
ốm tong, cao ráo đã bơi lội, nhưng lội theo
kiểu người Việt từ xưa,theo tư thế
dân chài Việt Nam, ngực và đầu nổi lên, thân
như hơi nghiêng nghiêng,chỉ thấy hai tay quạt
nước.Chàng thanh niên nầy mặt quần cụt
dài,vải đen,trông thô sơ,không có quần cụt bó sát
mộng kiểu Tây.Khi lên bờ chàng ta đến gần
tôi mà phân trần:
-Mình
là dân nghèo,cha mẹ chài lưới ở tận Ngã Bảy
- Phụng Hiệp, ráng lên đây học,sáng ăn xôi. Chán
quá ! Nhưng lên Cần Tho nầy cũng có nhiều
điều hay.Thích đọc sách báo không?
Tôi
có quen một người tốt lắm,cho tôi ở
trọ gần như miễn phí.Nghèo, anh chủ nầy làm
thợ máy ở bắc (phà )Cần thơ, qua bên kia bờ
sông Hậu.
“Phải
qua bên kía sông Hậu, rồi qua sông Tiền để lên Sài
Gòn”?Nghĩ thầm như vậy, tôi hẹn với anh
bạn trong như mộc mạc nầy, đến căn
nhà ở ngoại ô, đường vào quanh co, lầy
lội vì bấy giờ là mùa mưa.Từng xấp
báo,cắt ra những bài quan trọng,dán lại,thoạt
trông qua,tôi mừng rỡ,vì chỉ cắt ra những bài
liên quan đến lịch sử Việt Nam, Nam Bộ và
văn học.Nằm trên võng, gần vũng
nước,bất chấp bầy muỗi bao quanh,tôi
đọc một trích đoạn của Ðạo Nam Kinh. Anh
bạn nầy tự giới thiệu là Hai, bảo là cùng
học với tôi, khác lớp bên A, bên B.
Ðạo Nam Kinh có
lẽ là kinh do vì tiên, vì Phật nào đó hiện về
trần gian, qua việc cầu cơ bút ở ngoài Bắc
Kỳ từ lâu rồi,khuyên dạy người dân nên
giữ lòng yêu nước,so sánh tổ quốc ta như cái
đòn gánh,miền Trung là dãy Trường Sơn,hai
đầu là hai gánh lúa của đồng bằng sông
Hồng và sông Cửu Long.
-Ðạo Nam ơi, Ðạo Nam ơi,
Trăm năm còn
lại mấy lời thơ đây
Ai đưa mình
đến chốn nầy?
Cho đêm mỏi
hạc,cho ngày mệt loan.
Xót thân vơ vẩn
canh tàn.
Máu đông nên chữ, lệ
tràn ra thơ.
Rồi
anh bạn giải thích đó là kinh của đạo Minh
Sư,do chư tiên truyền xuống trần gian,ngày
đêm, đau xót. Hồi mấy năm xưa, chùa Nam Nhã
tại Bình Thủy, ngoại ô Cần Thơ, đã xuất
bản tập Ðạo Nam Kinh, phổ biến tận các
tỉnh, sau đó thực dân ra lịnh tịch thâu.Trong
mớ bài báo cắt dán, gặp bài thơ của J.Leiba, chưa
ngâm nga lên mà đã thấy thích thú,nhớ ngay, không cần
học cũng thuộc. Bài nhan đề Thụy Hoa Lầu:
Sân quạnh rêu phong
sầu liễu úa,
Lầu không
người vắng bóng hoa sầu.
Hoa xưa ngủ
lệ năm canh nguyệt,
Người
trước mơ hồ một nấm khâu.
-Ngây ngất gió hiu lùa bốn
mặt,
Mịt mờ mây
trắng cuốn ngan thâu
Cỏ non đâu
vết giày du tử?
Ánh lạt Tà
dương dãi góc lâu.
Lời lẽ khách sáo,
theo công thức xưa nhưng nhạc điệu
ở đâu đó,từ chân trời xa và từ trong lòng
mình ngân lên,hoà điệu.Cái đẹp Á Ðông,của thơ
ca đời Ðường.J.Leiba chợt hứng,mô phỏng
khéo léo,gợi không khí đẹp,ngàn xưa.Trong phút giây,tôi
như quên cả thực tế nghèo túng của mình,của
cha mẹ.Nếu không đi Cần Thơ, lòng yêu Tổ
quốc của tôi chỉ là mong manh,quanh quẩn mấy
gốc tràm với con cá lóc nướng trui và vài câu hát. Phải
đi xa. “Thượng phải
chí.Hạ phải đáo”.
Trong
mấy bài báo cắt dán, tôi chú ý bài của Nguyễn Vỹ,
lúc còn trẻ đã đến Bến Ngự ở Huế
để phỏng vấn một chí sĩ bị thực
dân lên án tử hình, rồi ân xá,bị quản thúc, nghèo,sống
trong chiếc thuyền bé,có mui. Sự gíup đỡ của
điạ phương bị giới hạn.Ong đang
ăn cơm với mắm ruốc,chuối chát,trong
tuổi già. Ðâu phải ai ở xứ Huế cũng
thỉnh thoảng được nếm món ăn thanh
cảnh.Lúc gặp nhà văn, cụ Phan Bội Châu ung dung ngâm
nga:
Râu mài trơ trẽn
với non sông,
Thật phải mình
chăng,lòng hỡi lòng,
Bấy
giờ, đứa con của cụ đang giã gạo. Cụ
Phan còn gợi hòan cảnh giam lỏng của mình qua câu ca
dao
đã có từ xưa:
-Ăn sung nằm
gốc cây sung,
Lấy anh thì lấy, nằm
chung không nằm !
Quả
là một phương châm để sống và tranh
đấu trong lòng địch. Bài báo cũ dán trong
nhiều tập.
Nôn
nóng nhất,lúc bấy giờ tôi ao ước
được qua phà,bên bờ là tả ngọn sông
Hậu,về phía Sài Gòn hằng mơ ước;U Minh là
đất mới,theo nghĩa là chưa khai khẩn đúng
mức, xóm làng chưa thành hình, nhiều người
đến vài năm rồi dời đi xứ khác.Trên
nầy,có đình làng,có chùa.Nhà nghèo ở ngoại ô Cần
Thơ cũng trồng cây cảnh,tạo hòn non bộ,
định hình thôn xóm.
Nhờ anh bạn giới
thiệu sơ qua, ông thợ máy dưới phà Cần
Thơ –ông Bảy Ngân đưa tôi xuống ,khỏi mua
vé,cứ ở dưới phà mà ngắm cảnh,chiều
về,hoặc ở tối cũng được,họ
chỉ soát vé người xuống phà chớ người
đi lên thì tự do. Ðến bờ sông, ngay bến phà,tôi
chú ý ngôi miếu nhỏ, thờ Thủy Long. Người
coi lái phà ngồi trên mui cao, còn ông Bảy thì xuống
hầm máy, chật chội,tối om om, bóng đèn
đỏ soi mờ mờ cũng một trang thờ
nhỏ,ghi chữ Thủy Long.Thời đại khoa
học mà con người vẫn tin sốn mạng mau
rủi,sợ tai nạn? Ông Bảy Ngân giải thích từ
hồi nào đã thấy bàn thờ,mình nên để
vậy,ai tin thì tin,nhưng riêng ông thì tin. Bảy năm
trước, một lần nọ chiếc ghe to chở
củi đụng vào phà, đụng bên hông,phà suýt chìm,ban
sáng. Ông Bảy lắng tai nghe tiếng kẻng hiệu
lệnh do người tài công (hoa tiêu ) trên nóc phà ban
xuống. Ðoạn sông Hậu nầy dài hơn 1 kilômét, ra
gần giữa sông,phà chạy ngon trớn, êm đềm.
Ông Bảy vụt nắm cây cần điều khiển, giảm
tốc độ trước khi nghe hiệu
lệnh,gần vào bờ.Hai bên là lộ xe,nhà cửa san
sát,nhiều quán,tiệm bán trái cây ngon,thêm cơm ,cá kho
tộ,canh chua; Ðất quá tốt,chuối mọc bên nhà xanh
tươi,mấy giàn khổ qua,bầu mướp
tươi tốt,nước dưới rạch dâng
lên,không cao không thấp, rõ ràng cây cỏ mạnh
khỏe,không cần chăm sóc.Trời đổ bóng
chiều, ăn khúc bánh mì dồn thịt,uống thêm ly
nước hột é khá ngọt,tôi thấy xứ nầy
mát mẻ,người dân vui vẻ,ham sống theo một
kiểu khắc hơn ở rừng U Minh, quê tồi.Trong
quán,có giăng võng, một phụ nữ luống tuổi
hát ru, đứa con đang thức, trố mắt:
Ðèn tạ đăng
để trước bàn thờ,
Vặn lên nó tỏ,
Vặn xuống nó
lờ...
Xuống sông hỏi
cá, lên bờ hỏi chim.
Trách ai làm cho thố
nọ xa tiềm,
Em xa người
nghĩa mà nằm điềm chiêm bao...
Rất
tiếc là không mang giấy bút để ghi lại,câu
nầy ở quê tôi làm sao có được.Tôi bèn yêu cầu
bà nọ hát trở lại, bà tươi cười:
-Nhớ
làm gì? Cậu nghe vài lần nữa,có người khác hát thì
nhớ. Câu hát là để hát chớ không phải
để ghi vô cuốn sổ mà học thuộc lòng. Muốn
học thì nhờ người nào hát lại.Cậu là
học trò?
-Dạ,
phải. Muốn ghi lại
để nhớ mà làm bài sau này.
-Thì
nhớ thêm câu nầy, nghe ngộ lắm ! Tôi chưa
hiểu hết.Nghe đâu của xứ Huế:
Cầu cao ba
mươi sáu nhịp,
Em theo không kịp
Nhắn lại cùng
chàng.
Cái nợ tào khang, sao
chàng vội dứt?
Ðêm nằm
thao thức, tưởng đó với đây.
Biết khi nao cho
phượng gặp bầy
Cho le gặp nhạn.
Ruột đau
từng đoạn,
Gan thắt chín
tầng.
Anh với em như
chanh với khế,
Như quế với
gừng,
Dầu xa nhau nữa
cũng đừng tiếng chi...
Bóng
chiều đổ xuống, tôi vội kiếu từ. Một
quảng đường, một sàng khôn. Dường
như dân mình chuộng ca hát, làm thơ hơn chuộng
đọc sách, tiểu thuyết. Ðến mé sông, ai nấy
xôn xao,chờ lên,xuống. Lục bình trôi phăng phăng
từng giề to lớn. Ðến mé bãi, tôi xăn quần
cho khỏi ướt,lấy hai bàn tay vốc nước, rửa
mặt, lẩm bẩm:Nước
Hậu Giang ngọt và mát hơn nước U Minh, nước
sông Cái Lớn. Vốc nước thứ nhì sóng sánh
giữa hai bàn tay, tôi thử nhìn,không thấy chút gì dơ
dáy, những hạt bụi hạt cát mà mãi về sau
nầy các người làm thơ làm văn ở phía Tây Nam
gọi là phù sa.
Rặng
bần theo bờ sông khá dài, vài chiếc xuồng câu
buộc dây vào, chờ ăn cơm. Có sóng gió, nhưng
lăn tăn,bình thường.Nhìn lên thượng nguồn
phía Bác,phía Long Xuyên- Châu Ðốc,tôi bền vận dụng
mớ kiến thức sơ đẳng, học ơỏ
nhà trường và trong sách báo.Trên kia là Nam Vang,trên
nữa,giáp nước Cam Bốt là Lào,Thái Lan,rồi
Miến Ðiện,Trung Hoa,nguồn
sông ở tận Tây Tạng, cách nơi nầy đâu
cũng hơn 4 ngàn kilômét.Tây Tạng được xem là
“mái nhà của cả thế gian nầy”.
Ông
Bảy Ngân cười tươi hỏi tôi vui không, thấy
cái gì lạ không,tôi lại hỏi:
-Ông
ơi,Tây Tạng là nguồn của sông Hậu Giang nầy,
xa lắm, đọc báo tôi thấy kể lại rằng...trên
đó nhiều vị Phật sống,huyền bí, bùa phép
rất giỏi,nhiều thầy tu đắc đạo, không
sống,không chết,tín đồ đặt trong quan tài, thỉnh
thoảng dở nắp ra thấy thân xác còn nguyên vẹn,da
thịt khô ran,lỗ mũi thì dường như còn
thở nhè nhẹ.
-Ðó
là chuyện mình chưa thấy nhưng người ta
kể lại thì nó cũng có “cái gì đó”.Xa xôi quá,cao nguyên
Tây Tạng dính vào dãy Hy mã Lạp Sơn,cao nhất thế
giới.Chuyện hoang đường nhiều lắm
nhưng cũng ảnh hưởng đến vùng Hậu
Giang nầy. Pháp gọi nước VIệt nam là khu vực
Indochine,chịu ảnh hưởng lớn của Trung Hoa và của
ấn Ðộ. Mình nên học cho rõ hơn.
Mình
là người Việt khôn lanh và vui vẻ với mọi
thứ văn minh.
Lên
bờ về nhà trọ, lại nhớ đến một ý
kiến mà lúc nảy chưa dám bàn bạc vì mình còn nhỏ
tuổi?
Nam
Bộ là đất sôi động, ngoài những loại
phong tục của người Hoa,người Khơme còn
thêm của người Pháp mà mình phải hứng
chịu.Pháp mở trường học, lộ xe nhưng
chém giết bao nhiêu người lương thiện, người
yêu nước.
Về
nhà, lại thao thức khi nhìn tờ lịch thấy năm
học gần chấm dứt. Muốn mở rộng kiến
thức,phải học thêm theo chương trình giáo khoa.Có
vài môn má tôi thấy dị ứng, hấp thụ không
dược, đó là hình học, số học,hoá
học.Về địa dư (điạ lý ),tạm dùng
bản đồ thế giới.Nhưng hóa học thì
cần phòng thí nghiệm,kiếng hiển vi...vì nhà trường
không có đủ.Phải học,phải thi đậu
để lên Sài Gòn tìm việc làm,mở rộng chân
trời. Nhà nghèo,học một năm trường tư
như thế nầy cũng đuối sức cha mẹ
rồi,tiền ở trọ thiếu trước hụt
sau,tóc để dài không tiền hớt. Ðôi guốc bằng
cây vông đi mãi, mỏng manh tưởng chừng có thể
tét làm hai.
Phải
đậu những hàng đầu ! Thi tuyển vào
trường, khoảng 500 đứa mà đậu hạng
thứ 20 mươi thì
xem
như không hy vọng nào được học bổng.
Nếu
ngoan ngoản học hành thì dễ quá. Nước mất, xã
hội quá nhiều bất công. Là người của
xứ U Minh,tôi nhớ mãi lời mẹ. Làm sao cho thiên
hạ đừng khinh người đi khẩn hoang,
ở vùng đất mới.Nhìn lại mấy xã lân cận
ở quê,nhà dường như chẳng ai có hoàn cảnh may
mắn như tôi.
Phải thi đậu, hạng cao thì đỡ tốn
tiền cha mẹ.Tôi quyết định: “Nên ở Cần
Thơ, dường như người nuôi trọ không khó
tánh cho lắm.Tôi ăn rất ít. Ðể luyện thi chung
với các bạn”. Nhưng bối cảnh xã hội không
như hồi năm ngoái. Ðệ nhị thế chiến
đã bùng nổ. Báo chí từ Sài Gòn đưa xuống
Cần Thơ bán chạy hơn. Giới công chức qui
tụ vào buổi chiều ở mấy quán bia đã
thưa thớt,trông thấy.Vài người công chức già
vẫn uống,mãi đến khuya.Ai nấy loan tin rằng
tất cả các loại hàng tiêu dùng đều lên giá,nên mua
để tích trử.Nhưng thế chiến dường
như chỉ bùng nổ bên Ba lan.Những tên Hítle, Mútxôlini
được nhắc nhở trên trang báo với chữ in
lớn. Riêng ở nước ta,cụ thể là Sài Gòn,vài
tờ báo tiến bộ bị đóng cửa và một
số người yêu nước bị bắt, đày ra
Côn Ðảo và Bà Rá (đâu ở Tây Ninh).Nhớ chuyện
học ôn để dự thi tuyển, tôi chưa
được yên tâm.Học tài thi mạng.Thi đậu
cao vẫn là hay hơn thi rớt. Ðể được
học bổng, để được bám chặt
đất Cần Thơ nầy, vùng đất nhạy
cảm.
Theo
chân người bạn học,tôi đi Bình Thủy rồi
tò mò qua cù lao Khương Bình Tịnh. Ông nầy có hiệu
thuốc Tây sang trọng nhất mà khi đi học,tôi
chỉ dám nhìn qua. Uống thuốc tây là chuyện quá
tốn kém, chẳng lẽ vào cửa hiệu của ông ta, nhìn
quanh quẩn các tủ kiếng rồi trở ra.Có cây cân
tự động, bước lên bàn là cây kim quây,chỉ
rỏ mình nặng mấy kílô, nhưng tôi cứ
ngại.Trước cửa hiệu thuốc, nhà
nước dựng cây trụ cao,xinh đẹp, nhằm
kỷ niệm các chiến sĩ trận vong giặc
1914-1919, chưa đầy 20 năm mà dường như
chẳng ai còn nhớ.Những người Việt vô
phước bị bắt lính đưa sang trời
Âu,mất xác,gia đình chắc cũng còn giữ kỷ
niệm mơ hồ. Vài người bạn bảo
rằng: “Học thêm nữa, chưa chắc
được làm quan to quan nhỏ, hoạ chăng là làm
thấy giáo làng,thầy giáo tỉnh.”
Ðối
với tôi, làm sao giải thích với cha mẹ về tình
hình thế giới. Ở Cần Thơ nầy, nạn
thất nghiệp lan tràn, đạp xích lô còn khó sống. Phải
đi học, có học mới yêu quê hương đúng
mức được, về U Minh thì làm sao gặp
được bạn tri âm như anh Hai,như ông Bảy
Ngân.Và nhiều người khác nữa.
Anh
Hai nói khi cùng đi bách bộ:
-Tụi
thực dân rối rắm tới mức rồi,nhiều
người theo cộng sản mà chúng cho rằng không nguy
hiểm cho lắm, hoặc chưa nắm được
bằng cớ.Từ miền khác bị đưa về
đây quản thúc lỏng,kêu là “chỉ định nơi
cư trú”.Phải trình diện hằng tuần hoặc
hằng tháng. Còn người nào có tiền án;bị tình nghi
ở đây thì đưa qua tỉnh khác.
Ðến
nhà một nhân vật mà tôi nhớ mãi, ở trọ căn
nhà lá, đầu to,mắt lộ,tóc hớt ngắn, ăn
nói nghiêm nghị nhưng thân mật, đó là ông quản
Bồ, ở Ðức Hoà,Tân An.
Ông quản ung dung nấu loại trà xanh,trong cái siêu
sắc thuốc. Rót nước, ông mời,bình
đẳng,mặc dầu khác xa tuối đời và tôi là
kẻ chưa có trình độ chính trị gì cả. Ông nói về
cuộc Ðệ nhị thế chiến mà thực dân Pháp
ở chính quốc và ở Việt Nam phải vướng
vào.Trục phát-xít Ðức-Ý-Nhật đánh phe Ðồng
Minh.Người yêu nước Việt Nam đứng
về phe Ðồng Minh vơí Mỹ, Anh,Pháp vì phe nầy
đứng về phía dân chủ,không độc tài. Ông
khuyên tôi nên đọc qua mấy bài báo cũ, cái gì không rõ
cứ hỏi.